Tinh trùng là gì? Các công bố khoa học về Tinh trùng
Tinh trùng là một loại tế bào sinh dục nam có chức năng thụ tinh nữ và góp phần vào quá trình sinh sản. Tinh trùng được sản xuất trong tinh hoàn của nam giới và...
Tinh trùng là một loại tế bào sinh dục nam có chức năng thụ tinh nữ và góp phần vào quá trình sinh sản. Tinh trùng được sản xuất trong tinh hoàn của nam giới và được giải phóng qua dịch tinh dẫn đến việc truyền tải thông qua quan hệ tình dục đến âm đạo của phụ nữ để gặp trứng phôi. Mỗi tinh trùng bao gồm một đầu chứa lõi chứa một bộ phận di truyền và một cuống có chức năng di chuyển.
Tinh trùng là những tế bào sinh dục nam nhỏ nhất trong cơ thể, có hình dạng dẹp và hình kim, đặc trưng với một chiếc đuôi để di chuyển. Chúng được tạo ra trong tinh hoàn, một cặp tuyến sinh dục nam nằm trong túi bì ở bên ngoài của bộ phận sinh dục ngoài. Quá trình hình thành tinh trùng từ các tế bào tinh linh hoạt trong tinh hoàn được gọi là quá trình tạo tinh.
Trong quá trình tạo tinh, tế bào tinh linh hoạt chia đôi liên tục bằng quá trình gọi là quá trình quái phân, tạo ra các tế bào con gọi là tế bào tinh. Các tế bào tinh lần lượt trải qua quá trình tiếp tục phân chia và trở thành tinh trùng chín muối, hiệu quả về mặt sinh sản.
Mỗi tinh trùng bao gồm một đầu, một cuống và một đuôi. Đầu của tinh trùng chứa lõi tín hiệu có chứa bộ một nửa của các gene của nam giới, góp phần vào di truyền-gen của đứa trẻ sẽ được sinh ra. Cuống của tinh trùng chứa tổ hợp các cơ chủ yếu để cung cấp năng lượng và dinh dưỡng cho tinh trùng khi di chuyển. Đuôi của tinh trùng chủ yếu có chức năng di chuyển các tinh trùng thông qua dịch tinh đến đến âm đạo của phụ nữ để gặp trứng phôi.
Khi một tinh trùng gặp một trứng phôi, nó sẽ thực hiện quá trình thụ tinh, trong đó một trong số những tinh trùng sẽ có khả năng xâm nhập vào trứng phôi và hợp nhất với nó, tạo thành một phôi thai mới. Quá trình này là cơ sở để thụ tinh xảy ra và bắt đầu quá trình phát triển của một người mới.
Tinh trùng có thành phần và cấu trúc phức tạp để thực hiện chức năng thụ tinh. Dưới đây là một số chi tiết thêm về cấu trúc và các phần của tinh trùng:
1. Đầu: Đầu của tinh trùng chứa lõi tín hiệu, mà chứa một phần của DNA của nam giới. Lõi tín hiệu chứa các khối tương tự như tế bào bình thường và một số protein đặc biệt được kích hoạt khi tinh trùng gặp trứng phôi.
2. Màng tổ tạo: Đầu tinh trùng có màng tổ tạo, một lượng dày và chắc chắn phủ lớp glycoprotein. Màng này giúp bảo vệ tế bào tinh khi di chuyển qua các mô nước tiểu và âm đạo của nữ giới.
3. Vùng trung giúp quả tinh: Vùng trung giúp quả tinh nằm ngay phía sau màng tổ tạo ở đầu tinh trùng. Nó là một khu vực chứa các enzyme như hyaluronidase và acrosin, có khả năng giúp tinh trùng xâm nhập vào trứng phôi bằng cách thủng qua lớp vỏ bảo vệ của trứng phôi.
4. Cuống: Cuống của tinh trùng có chức năng di chuyển. Nó chứa một số protein chuyên dụng để tạo năng lượng và dinh dưỡng cho tinh trùng. Cuống cũng có khả năng con quay, tạo ra chuyển động quay và lăn của tinh trùng khi di chuyển.
5. Đuôi: Đuôi của tinh trùng chứa một loạt các cơ với microtubulin, có khả năng dao động và chuyển động. Sự rung của các cơ này tạo ra chuyển động nhanh và lực đẩy tinh trùng điều hướng về phía trước.
Tinh trùng có khả năng di chuyển bằng cách chuyển động flagellum (đuôi) của nó. Khi tinh trùng được giải phóng vào âm đạo phụ nữ, chúng sẽ tiến về ống dẫn dầu tuyến tiền liệt và tiếp tục di chuyển lên ống dẫn dầu và cuối cùng tiến vào tử cung. Trong tử cung, tinh trùng có thể theo dõi và tìm kiếm trứng phôi để thực hiện quá trình thụ tinh.
Đó là một số chi tiết về tinh trùng và cấu trúc của chúng. Tinh trùng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sinh sản và thụ tinh và là một phần quan trọng của quá trình tạo ra một con người mới.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tinh trùng":
Phân bố không gian của các đặc tính đất ở quy mô đồng ruộng và lưu vực có thể ảnh hưởng đến tiềm năng năng suất, phản ứng thủy văn, và khả năng vận chuyển thuốc diệt cỏ và NO−3 tới bề mặt hoặc nước ngầm. Nghiên cứu của chúng tôi mô tả các phân bố theo quy mô đồng ruộng và xu hướng không gian cho 28 đặc tính đất khác nhau tại hai địa điểm trong một lưu vực ở trung Iowa. Hai trong số 27 thông số đo được tại một địa điểm và 10 trong số 14 thông số đo được tại địa điểm thứ hai có phân bố chuẩn. Biến đổi không gian được nghiên cứu thông qua các bán phương sai và tỷ lệ giữa phần ngẫu nhiên và tổng bán phương sai, được biểu thị dưới dạng phần trăm, được sử dụng để phân loại sự phụ thuộc không gian. Tỷ lệ <25% cho thấy sự phụ thuộc không gian mạnh, từ 25 đến 75% cho thấy sự phụ thuộc không gian trung bình, và >75% cho thấy sự phụ thuộc không gian yếu. Mười hai tham số tại Địa điểm một, bao gồm carbon hữu cơ, tổng nitơ, pH, và phân đoạn lớn, và bốn tham số tại Địa điểm hai, bao gồm carbon hữu cơ và tổng nitơ, có sự phụ thuộc không gian mạnh. Sáu tham số tại Địa điểm một, bao gồm carbon và nitơ sinh khối, mật độ khối và quá trình khử nitrat, và 9 tham số tại Địa điểm hai, bao gồm carbon và nitơ sinh khối và mật độ khối, có sự phụ thuộc không gian trung bình. Ba tham số tại Địa điểm một, bao gồm nitrat N và ergosterol, và một tham số tại Địa điểm hai, nitơ liên kết khoáng, có sự phụ thuộc không gian yếu. Phân bố của canxi hoán đổi và magiê tại Địa điểm một không có sự phụ thuộc không gian. Phân bố theo không gian cho một số đặc tính đất là tương tự ở cả hai địa điểm đồng ruộng. Chúng tôi sẽ có thể khai thác những sự tương đồng này để cải thiện khả năng suy diễn thông tin lấy từ một đồng ruộng tới các đồng ruộng khác trong những cảnh quan tương tự.
Trong suốt thập kỷ qua, vi khuẩn diệt côn trùng Bacillus thuringiensis đã trở thành đối tượng được nghiên cứu sâu rộng. Những nỗ lực này đã đem lại nhiều dữ liệu đáng kể về mối quan hệ phức tạp giữa cấu trúc, cơ chế hoạt động và di truyền của các protein tinh thể diệt côn trùng của sinh vật này, và hình ảnh nhất quán về những mối quan hệ này bắt đầu được hình thành. Các nghiên cứu khác tập trung vào vai trò sinh thái của protein tinh thể B. thuringiensis, hiệu quả của chúng trong các bối cảnh nông nghiệp và thiên nhiên khác, và sự phát triển của các cơ chế kháng cự ở các loài dịch hại mục tiêu. Với nền tảng kiến thức này cùng với công cụ công nghệ sinh học hiện đại, các nhà nghiên cứu hiện đang báo cáo những kết quả đầy hứa hẹn trong việc tạo ra các độc tố và công thức hữu ích hơn, trong việc tạo ra cây trồng chuyển gen có khả năng diệt côn trùng, và trong việc xây dựng các chiến lược quản lý tích hợp để đảm bảo rằng các sản phẩm này được sử dụng với hiệu quả và lợi ích tối đa.
Trong số các chỉ số liên quan đến gen hiện có, tính đồng nhất nucleotide trung bình (ANI) là một trong những phương pháp đo lường độ liên quan gen mạnh mẽ nhất giữa các chủng và có tiềm năng lớn trong phân loại vi khuẩn và vi khuẩn cổ như một phương pháp thay thế cho kỹ thuật lai DNA–DNA (DDH) tốn công sức. Một ngưỡng phạm vi ANI (95–96 %) cho việc phân định loài đã được đề xuất trước đây dựa trên điều tra so sánh giữa các giá trị DDH và ANI, mặc dù với các tập dữ liệu khá hạn chế. Hơn nữa, tính tổng quát của nó chưa được kiểm tra trên tất cả các nhánh của prokaryote. Ở đây, chúng tôi đã điều tra sự phân bố tổng thể của các giá trị ANI được tạo ra bởi sự so sánh từng đôi giữa 6787 bộ gen của prokaryote thuộc 22 ngành để xem liệu phạm vi đề xuất có thể được áp dụng cho tất cả các loài hay không. Có sự phân biệt rõ ràng trong sự phân bố ANI tổng thể giữa các mối quan hệ trong loài và liên loài tại khoảng 95–96 % ANI. Chúng tôi tiếp tục xác định mức độ tương đồng trình tự gen 16S rRNA nào tương ứng với ngưỡng ANI hiện tại được chấp nhận cho việc phân định loài bằng cách sử dụng hơn một triệu sự so sánh. Một bài kiểm tra thống kê kiểm tra chéo hai lần tiết lộ rằng 98.65 % sự tương đồng trình tự gen 16S rRNA có thể được sử dụng làm ngưỡng để phân biệt hai loài, điều này nhất quán với các đề xuất trước đó (98.2–99.0 %) bắt nguồn từ các nghiên cứu so sánh giữa DDH và sự tương đồng trình tự gen 16S rRNA. Những phát hiện của chúng tôi sẽ hữu ích trong việc tăng cường việc sử dụng dữ liệu trình tự gen trong phân loại vi khuẩn và vi khuẩn cổ.
Yếu tố hoại tử khối u-α (TNF-α) là một chất trung gian quan trọng gây kháng insulin trong tình trạng béo phì và tiểu đường, thông qua khả năng làm giảm hoạt tính tyrosine kinase của thụ thể insulin (IR). Việc xử lý tế bào mỡ chuột nuôi cấy với TNF-α cho thấy hiện tượng phosphoryl hóa serine của chất nền thụ thể insulin 1 (IRS-1), biến IRS-1 thành một chất ức chế hoạt tính tyrosine kinase của IR trong điều kiện in vitro. Các tế bào tủy 32D, vốn thiếu IRS-1 nội sinh, có khả năng đề kháng với sự ức chế tín hiệu IR do TNF-α gây ra. Ngược lại, các tế bào 32D chuyển gene biểu hiện IRS-1 lại rất nhạy cảm với tác động này của TNF-α. Một dạng IRS-1 mang tính ức chế cũng được tìm thấy trong mô cơ và mô mỡ của chuột béo phì. Những kết quả này cho thấy TNF-α gây kháng insulin thông qua một cơ chế bất ngờ của IRS-1, góp phần làm suy giảm tín hiệu thụ thể insulin.
Theo sau hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng coronavirus (SARS‐CoV) và hội chứng hô hấp Trung Đông coronavirus (MERS‐CoV), một loại coronavirus gây bệnh nặng khác được gọi là SARS‐CoV-2 (trước đây được biết đến với tên 2019‐nCoV) đã xuất hiện vào tháng 12 năm 2019 tại Vũ Hán, Trung Quốc, và lan nhanh ra khắp thế giới. Virus này có trình tự giống cao với SARS‐CoV và gây ra bệnh viêm phổi coronavirus cấp tính nguy hiểm chết người năm 2019 (COVID‐19) với các triệu chứng lâm sàng tương tự như các triệu chứng báo cáo cho SARS‐CoV và MERS‐CoV. Triệu chứng đặc trưng nhất của bệnh nhân COVID‐19 là suy hô hấp, và hầu hết các bệnh nhân nhập viện chăm sóc đặc biệt không thể thở tự phát. Ngoài ra, một số bệnh nhân COVID-19 cũng có biểu hiện triệu chứng thần kinh, như đau đầu, buồn nôn và nôn. Nhiều bằng chứng cho thấy rằng các coronavirus không chỉ giới hạn ở đường hô hấp mà còn có thể xâm nhập hệ thần kinh trung ương gây ra các bệnh thần kinh. Nhiễm trùng SARS‐CoV đã được báo cáo ở não của cả bệnh nhân và động vật thí nghiệm, nơi thân não bị nhiễm nghiêm trọng. Hơn nữa, một số coronavirus đã được chứng minh có khả năng lan truyền qua đường kết nối synapse đến trung tâm hô hấp tim mạch từ các thụ thể cơ học và hóa học trong phổi và đường hô hấp dưới. Xét sự tương đồng cao giữa SARS‐CoV và SARS‐CoV-2, vẫn cần làm rõ liệu khả năng xâm nhập tiềm tàng của SARS‐CoV-2 có phải là phần nào chịu trách nhiệm cho suy hô hấp cấp tính của bệnh nhân COVID-19 hay không. Nhận thức về điều này có thể mang ý nghĩa chỉ đạo cho công tác phòng ngừa và điều trị suy hô hấp do SARS‐CoV-2 gây ra.
Mục tiêu: Trong các thử nghiệm ngẫu nhiên, sự kết hợp cisplatin và paclitaxel đã vượt trội hơn so với cisplatin và cyclophosphamide trong điều trị ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn tiến triển. Mặc dù trong các thử nghiệm không ngẫu nhiên, carboplatin và paclitaxel là một chế độ kết hợp ít độc hơn và hoạt động cao, nhưng vẫn còn lo ngại về hiệu quả của nó ở những bệnh nhân có khối lượng nhỏ và được phẫu thuật giai đoạn III. Do đó, chúng tôi đã tiến hành một thử nghiệm không thấp hơn so sánh cisplatin và paclitaxel với carboplatin và paclitaxel trong dân số này.
Bệnh nhân và Phương pháp: Các bệnh nhân bị ung thư buồng trứng tiến triển và không còn khối u nào lớn hơn 1,0 cm sau phẫu thuật được phân bổ ngẫu nhiên để nhận cisplatin 75 mg/m2 cộng với truyền paclitaxel 135 mg/m2 trong vòng 24 giờ (nhánh I), hoặc carboplatin với diện tích dưới đường cong 7,5 tiêm tĩnh mạch cùng với paclitaxel 175 mg/m2 trong 3 giờ (nhánh II).
Kết quả: Bảy trăm chín mươi hai bệnh nhân đủ điều kiện đã được tuyển vào nghiên cứu. Các yếu tố tiên lượng tương tự trong hai nhóm điều trị. Độc tính tiêu hóa, thận và trao đổi chất, cũng như bạch cầu giảm độ 4, thường xuyên hơn đáng kể ở nhánh I. Giảm tiểu cầu độ 2 hoặc lớn hơn phổ biến hơn ở nhánh II. Độc tính thần kinh tương tự trong cả hai chế độ. Thời gian sống không tiến triển trung bình và thời gian sống tổng thể lần lượt là 19,4 và 48,7 tháng cho nhánh I so với 20,7 và 57,4 tháng cho nhánh II. Nguy cơ tương đối (RR) của tiến triển cho nhóm carboplatin cộng paclitaxel là 0,88 (95% khoảng tin cậy [CI], 0,75 đến 1,03) và RR của tử vong là 0,84 (95% CI, 0,70 đến 1,02).
Kết luận: Ở bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến triển, một chế độ hóa trị gồm carboplatin cộng paclitaxel ít gây độc tính hơn, dễ dàng sử dụng hơn và không kém phần hiệu quả khi so sánh với cisplatin cộng paclitaxel.
Kể từ khi bùng phát Bệnh do Coronavirus 2019 (COVID-19) vào tháng 12 năm 2019, nhiều triệu chứng tiêu hóa đã thường xuyên được báo cáo ở những bệnh nhân nhiễm virus. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhằm điều tra thêm mức độ phổ biến và kết quả của bệnh nhân COVID-19 có triệu chứng tiêu hóa.
Trong nghiên cứu mô tả, cắt ngang, đa trung tâm này, chúng tôi đã tuyển chọn những bệnh nhân được xác nhận mắc COVID-19 đã trình diện tại 3 bệnh viện từ ngày 18 tháng 01 năm 2020 đến ngày 28 tháng 02 năm 2020. Tất cả bệnh nhân đều được xác nhận bằng phương pháp phản ứng chuỗi polymerase thời gian thực và được phân tích về các đặc điểm lâm sàng, dữ liệu phòng thí nghiệm và điều trị. Dữ liệu được theo dõi đến ngày 18 tháng 03 năm 2020.
Trong nghiên cứu hiện tại, 204 bệnh nhân mắc COVID-19 với đầy đủ dữ liệu phòng thí nghiệm, hình ảnh và lịch sử đã được phân tích. Độ tuổi trung bình là 52,9 tuổi (SD ± 16), bao gồm 107 nam và 97 nữ. Dù hầu hết bệnh nhân đến bệnh viện với triệu chứng sốt hoặc hô hấp, chúng tôi đã phát hiện rằng 103 bệnh nhân (50,5%) báo cáo có triệu chứng tiêu hóa, bao gồm chán ăn (81 [78,6%] trường hợp), tiêu chảy (35 [34%] trường hợp), buồn nôn (4 [3,9%] trường hợp), và đau bụng (2 [1,9%] trường hợp). Nếu loại trừ chán ăn khỏi phân tích (vì triệu chứng này ít đặc hiệu hơn cho đường tiêu hóa), có tổng cộng 38 trường hợp (18,6%) mà bệnh nhân xuất hiện triệu chứng đặc hiệu cho đường tiêu hóa, bao gồm tiêu chảy, buồn nôn hoặc đau bụng. Bệnh nhân có triệu chứng tiêu hóa có thời gian từ khi khởi phát đến khi nhập viện lâu hơn đáng kể so với bệnh nhân không có triệu chứng tiêu hóa (9,0 ngày so với 7,3 ngày). Trong 6 trường hợp có triệu chứng tiêu hóa nhưng không có triệu chứng hô hấp. Khi mức độ nghiêm trọng của bệnh tăng lên, triệu chứng tiêu hóa trở nên rõ ràng hơn. Bệnh nhân có triệu chứng tiêu hóa có mức enzyme gan trung bình cao hơn, số lượng bạch cầu đơn nhân thấp hơn, thời gian prothrombin lâu hơn và nhận được nhiều liệu pháp kháng sinh hơn so với những người không có triệu chứng tiêu hóa.
Chúng tôi thấy rằng triệu chứng tiêu hóa là phổ biến ở những bệnh nhân mắc COVID-19. Hơn nữa, những bệnh nhân này có thời gian từ khi khởi phát đến khi nhập viện lâu hơn, chứng cớ về chứng đông máu lâu hơn và mức enzyme gan cao hơn. Các bác sĩ lâm sàng nên nhận thức rằng triệu chứng tiêu hóa, chẳng hạn như tiêu chảy, thường là một trong những triệu chứng xuất hiện của COVID-19 và rằng chỉ số nghi ngờ có thể cần được nâng lên sớm hơn đối với những bệnh nhân có nguy cơ khi xuất hiện triệu chứng tiêu hóa. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu với mẫu quan sát lớn hơn để xác nhận những phát hiện này.
Các protein tinh thể của Bacillus thuringiensis đã được nghiên cứu rộng rãi do đặc tính diệt côn trùng của chúng và khả năng sản xuất tự nhiên cao. Việc xác định nhanh chóng các gen protein tinh thể mới, xuất phát từ nỗ lực tìm kiếm các protein có đặc tính diệt côn trùng mới, đã dẫn đến sự xuất hiện của nhiều chuỗi và hoạt tính đa dạng, không còn phù hợp với hệ thống danh pháp ban đầu được đề xuất vào năm 1989. Danh pháp protein tinh thể trừ sâu Cry và Cyt của Bacillus thuringiensis ban đầu dựa trên hoạt tính diệt côn trùng như là tiêu chí xếp hạng chính. Tuy nhiên, nhiều ngoại lệ với sắp xếp hệ thống này đã trở nên rõ ràng, khiến hệ thống danh pháp không nhất quán. Hơn nữa, danh pháp ban đầu, với bốn cấp bậc chính dựa trên hoạt tính cho 13 gen, không dự đoán được 73 chuỗi họ kiểu mẫu hiện tại, tạo thành nhiều hơn bốn nhóm phụ ban đầu. Một hệ thống danh pháp mới, dựa trên cụm phân cấp bằng cách sử dụng độ đồng nhất chuỗi amino acid, được đề xuất. Các chữ số La Mã đã được thay thế bằng các chữ số Ảrập ở hạng chính (ví dụ: Cry1Aa) để phù hợp hơn với số lượng lớn các chuỗi mới dự kiến. Trong đề xuất này, 133 protein tinh thể gồm 24 hạng chính được sắp xếp một cách hệ thống.
Mục tiêu: Xác định tác dụng phụ và tính khả thi của cisplatin và carboplatin khi kết hợp lần lượt với paclitaxel làm liệu pháp đầu tay trong ung thư biểu mô buồng trứng tiến triển.
Bệnh nhân và phương pháp: Các bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên để nhận paclitaxel 175 mg/m2 qua đường tĩnh mạch dưới dạng truyền trong 3 giờ, sau đó là cisplatin 75 mg/m2 hoặc carboplatin (diện tích dưới đường cong nồng độ-thời gian huyết tương là 5), cả hai đều vào ngày 1. Liệu trình được lặp lại mỗi ba tuần trong ít nhất sáu chu kỳ. Phụ nữ được chỉ định paclitaxel-cisplatin phải nhập viện, trong khi phác đồ carboplatin được cung cấp cho bệnh nhân ngoại trú.
Kết quả: Tổng cộng có 208 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đã được ngẫu nhiên. Cả hai phác đồ đều có thể được cung cấp ở liều lượng tối ưu và không có sự trì hoãn đáng kể. Paclitaxel-carboplatin gây ra ít buồn nôn và nôn hơn đáng kể (P < .01) và ít độc tính thần kinh ngoại vi hơn (P = .04) nhưng lại gây nhiều giảm bạch cầu hạt và giảm tiểu cầu hơn (P < .01). Tỷ lệ đáp ứng tổng thể ở 132 bệnh nhân có bệnh đo được là 64% (84 trong số 132 bệnh nhân), và đối với bệnh nhân có nồng độ CA 125 tăng lúc bắt đầu, là 74% (132 trong số 178 bệnh nhân). Với thời gian theo dõi trung bình là 37 tháng, thời gian sống sót không bệnh tiến triển trung bình của tất cả bệnh nhân là 16 tháng và thời gian sống sót tổng thể trung bình là 31 tháng. Số lượng bệnh nhân nhỏ tham gia vào nghiên cứu gây ra các khoảng tin cậy (CIs) rộng quanh tỷ số nguy cơ đối với sống sót không bệnh tiến triển của paclitaxel-carboplatin so với paclitaxel-cisplatin (tỷ số nguy cơ, 1.07; 95% CI, 0.78 đến 1.48) và không cho phép kết luận về hiệu quả.
Kết luận: Paclitaxel-carboplatin là một phác đồ khả thi cho bệnh nhân ngoại trú với ung thư buồng trứng và có hồ sơ độc tính tốt hơn so với paclitaxel-cisplatin.
Tính nhạy cảm với thuốc chống nấm của 232 chủng Candida gây bệnh nhiễm trùng huyết được thu thập trong một thử nghiệm vừa hoàn thành so sánh fluconazole (400 mg/ngày) với amphotericin B (0.5 mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày) như là phương pháp điều trị cho bệnh nhân nhiễm trùng huyết không giảm bạch cầu được xác định bằng cả phương pháp macrobroth M27-P của Ủy ban Quốc gia về Tiêu chuẩn Phòng thí nghiệm Lâm sàng và một phương pháp pha loãng dịch lỏng vi mô ít phức tạp hơn. Đối với amphotericin B, M27-P cho thấy một khoảng MIC rất hẹp (0.125 đến 1 microgram/ml) và không có sự khác biệt về độ nhạy giữa các loài. Đối với fluconazole, một khoảng MIC rộng (0.125 đến > 64 micrograms/ml) được quan sát, với các giá trị MIC đặc trưng cho mỗi loài theo thứ tự xếp hạng Candida albicans < C. parapsilosis xấp xỉ bằng C. lusitaniae < C. glabrata xấp xỉ bằng C. krusei xấp xỉ bằng C. lipolytica. Phân bố MIC cho C. tropicalis là hai đỉnh và không thể xếp hạng. Cả hai MIC pha loãng vi mô đều nằm trong một độ pha loãng của ống so với MIC M27-P cho > 90% các chủng với amphotericin B và cho > hoặc = 77% các chủng với fluconazole. Đối với cả hai phương pháp, các MIC cao không dự đoán được sự thất bại trong điều trị. Đối với amphotericin B, khoảng MIC quá hẹp để cho phép xác định các chủng kháng thuốc. Đối với fluconazole, MIC của các chủng có liên quan đến việc không tiêu diệt được vi khuẩn trong máu một cách nhất quán tương đương với giá trị trung vị MIC cho loài đó. Những liệu trình điều trị thành công được quan sát với bốn chủng từ bốn bệnh nhân mặc dù có MIC > hoặc = 32 micrograms/ml. Do các MIC thu được bằng M27-P và các phương pháp tương tự có tương quan với khả năng đáp ứng với liệu pháp fluconazole trong các mô hình động vật và ở bệnh nhân AIDS mắc bệnh nấm miệng, sự thiếu tương quan trong bối cảnh này cho thấy rằng các MIC cho những chủng này nằm ở hoặc dưới ngưỡng fluconazole có liên quan đối với liều fluconazole này và tình trạng của bệnh nhân, và rằng các yếu tố của cơ thể như việc không thay đổi catheter tĩnh mạch quan trọng hơn so với MIC trong việc dự đoán kết quả.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10